Quyền lực vô biên của một kẻ thống trị tùy tiện nhất cũng chỉ đủ để thúc đẩy hoặc ngăn cản chút ít cái thời điểm xảy ra. Họ ít có cái nhìn sắc sảo và cũng không thể khác được, bởi vì sự sắc sảo nhìn chung sẽ dẫn đến trạng thái nghi ngờ và không hành động. Chỉ có kinh nghiệm, là người thày cuối cùng, sẽ đảm nhận việc chỉ ra cho chúng ta những sai lầm của bản thân.
1789, chắc chắn sẽ không xảy ra nếu như họ là những con người độc lập. Chúng ta cũng sẽ lại gặp lại tác động của lời nói và khẩu hiệu mà chúng ta đã từng bàn về cái sức mạnh mãnh liệt của nó. Bởi số lượng được chọn vào làm việc hạn chế, cho nên mặc nhiên số người bất mãn sẽ cực lớn.
Cũng có lý khi mà các dân tộc luôn hấp tấp trong việc bảo vệ các niềm tin của họ. Nó là một dấu hiệu ban đầu của sự thoái hóa mà cho đến nay không một dân tộc nào có thể tránh khỏi. Một cách chính xác, Renan đã so sánh những người thành lập ra nhà thờ thiên chúa giáo với “những người làm công tác xã hội, đã truyền bá những ý tưởng từ quán rượu này sang quán rượu khác”.
Chúng được tạo thành từ những phần tử riêng biệt bất kỳ nào đó, nghề nghiệp hoặc trình độ hiểu biết không là vấn đề quan trọng. Các rối loạn thần kinh, như sự điên rồ chẳng hạn, cũng lan truyền theo cách lây nhiễm. Ví dụ một nhà lập pháp khi muốn ra một điều luật thuế mới liệu có được phép chọn giải pháp về lý thuyết là công bằng nhất không? Không bao giờ.
Sự tác động vào từng thành viên của đám đông sẽ đặc biệt mạnh, nếu như ta khêu dậy được ở họ những tình cảm về niềm kiêu hãnh và danh dự, về tôn giáo và tổ quốc. Không chỉ các triều thần thán phục đức Vua, mà là Rom; và không chỉ Rom, cả Galien, Tây Ban Nha, Hy Lạp và Á châu. Ngày nay việc ban hành chính sách, nguyện vọng cá nhân của các nhà lãnh đạo và sự tranh giành giữa họ chỉ còn có rất ít tác động.
Đám đông Latinh chỉ có một tình cảm dành cho sự độc lập hoàn toàn đối với nhóm tín ngưỡng của mình (dịch sai, đúng ra là, “chỉ tha thiết với sự độc lập của nhóm tín ngưỡng của mình”), và coi sự độc lập đó là một đòi hỏi phải cưỡng bức các tín ngưỡng khác lập tức nhập vào tín ngưỡng của mình. Tính thái quá (exagération) và tính phiến diện (simplisme) của tình cảm đám đông Quyền lợi cá nhân, quyền lợi gia đình, tất cả đều bị hy sinh.
Nhiệm vụ của các nhà triết học là phải nghiên cứu xem cái gì nằm bên dưới những cái dường như là biến đổi của các niềm tin cũ và trong dòng xoáy của vô số những quan niệm, ý kiến, phải tìm ra được những chuyển động được quyết định bởi những quan điểm nền tảng và tâm hồn giống nòi. Những lãnh đạo lớn của đám đông như Buddha, Jesus, Mohammed, Jeanne d'Arc, Napoleon đều có một ảnh hưởng kiểu như vậy ở tầm vóc cao và đặc biệt qua đó họ đã tạo nên cho mình một uy tín lớn. Có những hình thái phát triển nhất đinh dường như đối với tất cả các dân tộc đều phải trải qua, bởi quá trình như vậy đã lặp lại rất nhiều lần trong lịch sử.
Bây giờ tôi chuyển qua uy lực cá nhân. Lịch sử tội phạm của đám đông sẽ cho ta nhận thấy rõ ràng điều đó. Ngày nay chúng ta thấy, các học thuyết xã hội chủ nghĩa đang bắt đầu tấn công vào tầng lớp bên trên này và có lẽ họ sẽ là nạn nhân đầu tiên của nó.
Từ đức Jehova tàn bạo trong kinh thánh cho đến đức chúa trời đầy tình thương của thánh Therese là cả một bước lớn, và Đức Phật được kính trọng ở Trung quốc với Đức Phật được yêu mến ở Ấn độ chẳng có chút gì giống nhau. Thỉnh thoảng đám đông cũng tỏ ra là một ông chủ hiền hòa, kiểu như Heliogabal [thần mặt trời] và Tiberius [vua thứ hai của đế chế Rom] lâu lâu cũng một lần như vậy, nhưng họ cũng có cái tính cách rất thất thường. Nhưng những ông chủ vô hình thống trị tâm hồn chúng ta, đều thoát khỏi mọi sự tấn công và chỉ bị suy yếu bởi sự hao mòn từ từ kéo dài hàng thế kỷ.
Nó bắt buộc phải chọn ra trong đó những người đầu tiên để nuôi ăn và coi những người còn lại là kẻ thù. Đã quen với việc tròng bất kỳ cái ách nào vào cổ, dứt khoát họ sẽ đi đến chỗ đi tìm những cái ách đó và cuối cùng là mất hết tất cả căn nguyên và sức mạnh. Không có một ý tưởng, không có một hành vi, không có một sáng kiến - đó là sự buồn tẻ ở mức độ cao nhất.